Cám Ơn 346 528 1368 Cám Ơn.
24 Sơn, 8 Hướng trên la bànHậu thiên Bát quái của Văn Vương được chia làm 8 hướng đều nhau, với mỗi hướng đi liền với một số của Cửu tinh: hướng BẮC (số 1), ĐÔNG BẮC (số 8), ĐÔNG (số 3), ĐÔNG NAM (số 4), NAM (số 9), TÂY NAM (số 2), TÂY (số 7) , TÂY BẮC (số 6). Riêng số 5 vì nằm ở chính giữa (trung cung) nên không có phương hướng. Đem áp đặt Hậu thiên Bát quái lên la bàn gồm 360 độ, thì mỗi hướng (hay mỗi số) sẽ chiếm 45 độ trên la bàn. Vào thời kỳ phôi phai của học thuật Phong thủy (thời nhà Chu), việc phân chia la bàn thành 8 hướng như vậy đã được kể là quá tinh vi và chính xác. Nhưng sau này, khi bộ môn Phong thủy đã có những bước tiến vượt bậc dưới thời Đường – Tống, khoảng cách 45 độ được xem là quá lớn và sai lệch qúa nhiều. Để cho chính xác hơn, người ta lại chia mỗi hướng ra thành 3 sơn đều nhau, mỗi sơn chiếm 15 độ. Như vậy trên la bàn lúc này đã xuất hiện 24 sơn. Người ta lại dùng 12 Địa Chi, 8 Thiên Can (đúng ra là 10, nhưng 2 Can Mậu-Kỷ được quy về trung cung cho Ngũ Hoàng nên chỉ còn 8 Can) và 4 quẻ Càn – Khôn – Cấn – Tốn mà đặt tên cho 24 sơn như sau:
– Hướng BẮC (số 1): Gồm 3 sơn NHÂM–TÝ-QUÝ
– Hướng ĐÔNG BẮC (số 8): 3 sơn SỬU–CẤN–DẦN
– Hướng ĐÔNG (số 3): 3 sơn GIÁP–MÃO–ẤT
– Hướng ĐÔNG NAM (số 4) 3 sơn THÌN–TỐN–TỴ
– Hướng NAM (số 9): 3 sơn BÍNH–NGỌ–ĐINH
– Hướng TÂY NAM (số 2): 3 sơn MÙI–KHÔN–THÂN
– Hướng TÂY (số 7): 3 sơn CANH–DẬU–TÂN
– Hướng TÂY BẮC (số 6): 3 sơn TUẤT–CÀN–HỢI
Tất cả 24 sơn trên la bàn đều được xếp theo thứ tự từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ. Chẳng hạn như hướng BẮC có 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, sơn NHÂM chiếm 15 độ phía bên trái, sơn TÝ chiếm 15 độ nơi chính giữa hướng BẮC, còn sơn QUÝ thì chiếm 15 độ phía bên phải. Tất cả các sơn khác cũng đều theo thứ tự như thế.
Mỗi sơn được xác định với số độ chính giữa như: sơn NHÂM tại 345 độ; TÝ 360 độ hay 0 độ; QUÝ 15 độ; SỬU 30 độ; CẤN 45 độ; DẦN 60 độ; GIÁP 75 độ; MÃO 90 độ; ẤT 105 độ; THÌN 120 độ; TỐN 135 đô; TỴ 150 độ; BÍNH 165 độ; NGỌ 180 độ; ĐINH 195 độ; MÙI 210 độ; KHÔN 225 độ; THÂN 240 độ; CANH 255 độ; DẬU 270 độ; TÂN 285 độ; TUẤT 300 độ; CÀN 315 độ; HỢI 330 độ;
Phần trên là tọa độ chính giữa của 24 sơn. Từ tọa độ đó người ta có thể tìm ra phạm vi của mỗi sơn chiếm đóng trên la bàn, bằng cách đi ngược sang bên trái, cũng như sang bên phải của tọa độ trung tâm, mỗi bên là 7 độ 5 (vì phạm vi mỗi sơn chỉ có 15 độ). Chẳng hạn như hướng MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu đi ngược sang bên trái 7 độ 5 (tức là trừ đi 7 độ 5) thì được 202 độ 5. Sau đó từ tọa độ trung tâm là 210 độ lại đi thuận qua phải 7 độ 5 (tức là cộng thêm 7 độ 5) thì được 217 độ 5. Như vậy phạm vi sơn MÙI sẽ bắt đầu từ 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5 trên la bàn.
Tọa độ của 24 hướng trên la bàn
Chính Hướng và Kiêm Hướng
Một vấn đề làm cho người mới học Phong thủy khá bối rối là thế nào là Chính Hướng và kiêm Hướng? Thật ra, điều này cũng không khó khăn gì cả, vì khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn (bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính Hướng. Còn nếu không đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là Kiêm Hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà không được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh (điều này sẽ nói rõ hơn trong phần Tam nguyên long). Nói kiêm phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mỗi sơn làm trung tâm mà tính. Chẳng hạn như sơn MÙI có tọa độ trung tâm là 210 độ. Nếu bây giờ 1 căn nhà có hướng là 215 độ thì nhà đó thuộc hướng MÙI (vì sơn MÙI bắt đầu từ khoảng 202 độ 5 và chấm dứt tại 217 độ 5), nhưng kiêm bên phải 5 độ. Nhưng trong thuật ngữ Phong thủy thì người ta lại không nói kiêm phải hoặc trái, mà lại dùng tên của những hướng được kiêm để gọi nhập chung với hướng của ngôi nhà đó. Như trong trường hợp này là nhà hướng MÙI kiêm phải 5 độ, nhưng vì hướng bên phải của hướng MÙI là hướng KHÔN, nên người ta sẽ nói nhà này “hướng MÙI kiêm KHÔN 5 độ” tức là kiêm sang bên phải 5 độ mà thôi.
Riêng với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì 1 hướng nếu chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ tâm điểm của hướng đó thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữa được thuần khí của hướng. Còn nếu lệch quá 3 độ so với trung tâm của 1 hướng thì được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó không thuần và coi như bị nhận nhiều tạp khí. Những trường hợp này cần được dùng Thế quái (hay số thế, sẽ nói trong 1 dịp khác) để hy vọng đem được vượng khí tới hướng hầu biến hung thành cát mà thôi..
Tam nguyên long
Sau khi đã biết được 24 sơn (hay hướng) thì còn phải biết chúng thuộc về Nguyên nào, và là dương hay âm, để có thể xoay chuyển phi tinh Thuận hay Nghịch khi lập trạch vận. Nguyên này không phải là “Nguyên” chỉ thời gian như đã nói trong “Tam Nguyên Cửu Vận”, mà là chỉ địa khí của long mạch, hay phương hướng của trái đất mà thôi.
Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long. Mỗi Nguyên bao gồm 8 sơn (hay 8 hướng), trong đó có 4 sơn dương và 4 sơn âm như sau:
– THIÊN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn :
* 4 sơn dương: CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN.
* 4 sơn âm: TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU.
– ĐỊA NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: GIÁP, CANH, NHÂM, BÍNH.
* 4 sơn âm: THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI.
– NHÂN NGUYÊN LONG: bao gồm 8 sơn:
* 4 sơn dương: DẦN, THÂN, TỴ, HỢI.
* 4 sơn âm: ẤT, TÂN, ĐINH, QUÝ.
Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vòng LƯỢNG THIÊN XÍCH. (điều này sẽ được nói rõ trong phần lập tinh bàn cho trạch vận ở 1 mục khác).
Ngoài ra, nếu nhìn kỹ vào sự phân chia của Tam nguyên Long ta sẽ thấy trong mỗi hướng của Bát quái được chia thành 3 sơn, và bao gồm đủ ba Nguyên: Địa, Thiên và Nhân, theo chiều kim đồng hồ. Thí dụ như hướng BẮC được chia thành 3 sơn là NHÂM-TÝ-QUÝ, với NHÂM thuộc Địa nguyên long, TÝ thuộc Thiên nguyên long, và QUÝ thuộc Nhân nguyên long. Các hướng còn lại cũng đều như thế, nghĩa là Thiên nguyên long ở chính giữa, Địa nguyên long nằm bên phía tay trái, còn Nhân nguyên long thì nằm bên phía tay phải. Từ đó người ta mới phân biệt ra Thiên nguyên long là quẻ Phụ mẫu, Địa nguyên long là Nghịch tử (vì nằm bên tay trái của Thiên nguyên long tức là nghịch chiều xoay chuyển của vạn vật), còn Nhân nguyên long là Thuận tử. Trong 3 nguyên Địa-Thiên-Nhân thì Thiên và Nhân là có thể kiêm được với nhau (vì là giữa phụ mẫu và thuận tử). Còn Địa nguyên long là nghịch tử chỉ có thể đứng 1 mình, không thể kiêm phụ mẫu hay thuận tử. Nếu Địa kiêm Thiên tức là âm dương lẫn lộn (hay âm dương sai thố). Nếu Địa kiêm Nhân thì sẽ bị xuất quái.
– Thí dụ: Nhà hướng MÙI 205 độ. Vì hướng MÙI bắt đầu từ 202 độ 5, nên nhà hướng 205 độ cũng vẫn nằm trong hướng MÙI, nhưng kiêm sang phía bên trái 5 độ, tức là kiêm hướng ẤT 5 độ. Vì hướng MÙI là thuộc Địa nguyên long (tức Nghịch tử), chỉ có thể lấy chính hướng (210 độ) chứ không thể kiêm, cho nên trường hợp này là bị phạm xuất quái, chủ tai họa, bần tiện. Ngược lại, nếu 1 căn nhà có hướng là 185 độ, tức là hướng NGỌ kiêm ĐINH 5 độ. Vì NGỌ là quẻ Phụ mẫu, kiêm sang bên phải tức là kiêm Thuận tử nên nhà như thế vẫn tốt chứ không xấu. Đây là 1 trong những yếu tố căn bản và quan trọng của Huyền không Học, cần phải biết và phân biệt rõ ràng. Có như vậy mới biết được tuy 2 nhà cùng 1 trạch vận, nhưng nhà thì làm ăn khá, mọi người sang trọng, có khí phách, còn nhà thì bình thường, con người cũng chỉ nhỏ mọn, tầm thường mà thôi. Cho nên sự quý, tiện của 1 căn nhà phần lớn là do có biết chọn đúng hướng hoặc biết kiêm hướng hay không mà ra. Những điều này sẽ được nói rõ hơn trong phần Lập hướng và Kiêm hướng.
Đại Không Vong là các đường ngăn cách hai cung kề nhau trong đồ hình bát cung bên dưới (các đường màu đỏ).
Tiểu Không Vong là các đường ngăn cách 2 sơn vị kề nhau (màu xám).
Trong phong thủy nhà đất, Không vong được hiểu nôm na là vùng đất không có không khí lưu chuyển. Hoặc nếu có thì là lưu chuyển hỗn tạp. Là tuyến ranh giới giữa hai hướng, hai sơn. Nơi này tuyến trục từ trường của trái đất rất phức tạp.
Khí phải thuận theo quy luật di chuyển của âm dương mới tốt và hợp phong thủy. Ở các tuyến không vong, âm dương không được hài hòa, không được rạch ròi mà lẫn lộn với nhau. Từ đó lâu dần nó trở thành vùng đất chết không thể sản sinh ra khí.
Những nơi như vậy chỉ có đền, chùa, miếu, nghĩa trang mới có thể xây dựng. Bởi thần, thánh, ma quỷ không bị nguyên tắc không vong chi phối, không bị tác động bởi khí.
Khi hướng nhà phạm phải các tuyến không vong thì dễ bị tà khí xâm nhập. Từ đó mang tới nhiều tai họa nghiêm trọng, ma quỷ quấy phá. Dẫn đến các hậu quả:
Là hướng mặt trời mọc, bình minh xua tan đêm tối, có ánh nắng thì vạn vật mới sinh trưởng, phát triển, cho nên nó là tượng trưng cho sự sinh tồn, niềm hy vọng, tiềm lực, sáng sủa, tiến triển, hưng vượng, lý tưởng,… tác dụng đối với tuổi trẻ càng rõ rệt hơn.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Đông vượng (tốt): Khoẻ mạnh, tinh lực dồi dào, có tài ăn nói, nắm bắt cơ hội, con trai trưởng dễ thành đạt, có quan hệ bạn bè tốt.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Đông suy (xấu): Khổ sở vì bệnh tật, đặc biệt là bệnh gan và chứng đau thần kinh, tinh thần uể oải, do dự, không quyết đoán, hay cãi vã, tranh chấp với người khác, dễ bị người khác lợi dụng, lừa gạt. Con trai trưởng dễ phải xa nhà, không sống chung với người nhà.
Mặt trời lặn ở hướng Tây, là nơi mặt trời dần đi vào đường chân trời, kết thúc một ngày. Đó cũng là lúc trở về nhà, cả nhà đoàn tụ. Hướng Tây có xu hướng ổn định, bảo thủ, chậm chạp, giữ vững cái đã có. Đối với sự việc mới khó tiếp thu, khó đổi mới, không xác định mục đích, thiếu chủ ý, những điều trên đều là ảnh hưởng tiềm tàng của hướng Tây.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Tây vượng (tốt): Kinh tế sung túc ổn định, giỏi kinh doanh, có tài ăn nói, giỏi giao tiếp, Cuộc sống gia đình hoà thuận, ổn định, thích sống nhàn, bạn gái tràn đầy sức thu hút.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Tây suy (xấu): Biếng nhác, chậm chạp, ham cuộc sống sung sướng mà đi vào con đường tà đạo, khổ vì tiền của, thường xuyên thay đổi việc làm, cuộc sống không ổn định, dễ mắc bệnh về vòm họng, miệng, lưỡi, thắt lưng, Luôn có xích mích trong gia đình dù là việc nhỏ.
Là hướng mặt trời lên cao, ở giữa cực dương, cũng chính là thời kỳ hoàng kim mạnh mẽ của cuộc đời con người. Địa vị xã hội, tiền tài, quyền thế, năng lực lãnh đạo, trí tuệ, tài năng,… đều có liên quan đến hướng Nam, đây cũng là phương vị để những khả năng phát huy sức mạnh.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Nam vượng (tốt): Trẻ nhỏ đầu óc linh hoạt, hiếu động. Có ý chí cầu tiến, hành động quả quyết, có phán đoán tốt. Người có sức khỏe tốt, đặc biệt là tim và mắt, tinh thần. Đối với thứ nữ trong gia đình (hoặc phụ nữ trung niên) rất tốt.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Nam suy (xấu): Thích phô trương bề ngoài, hay suy nghĩ tiêu cực nên làm việc khó thành công. Thích đầu cơ trục lợi dẫn đến tán tài, hay bịbạn bè kiện tụng tranh chấp. Dễ mắc bệnh ở phần đầu, tim, huyết áp, mắt. Thành viên dễ ly tán nhất là thứ nữ.
Tượng trưng màn đêm buông xuống trên mặt đất, là phương vị cực âm, có hàm nghĩa nghỉ ngơi. Đồng thời, nó còn ẩn dụ cho sự đoàn tụ gia đình, củng cố tình yêu nam nữ,… thảy đều có ảnh hưởng rất lớn.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Bắc vượng: Giao du rộng rãi, mọi việc thường được như ý, làm ăn phát triển dần lên, cuộc sống nhiều thú vị, vợ hiền, con ngoan, gia đình hạnh phúc, gia vận hưng thịnh, sự nghiệp ngày càng tốt.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Bắc suy: Thường xuyên phiền não vì công việc, dễ xảy ra quan hệ nam nữ bất chính, thường xuyên có người nhà mắc bệnh, cơ hội làM ăn tốt thường chấm dứt một cách vô cớ.
Mặt trời dần dần lặn ở hướng Tây, khi màn đêm sắp buông xuống thì hướng Tây Bắc là đường chân trời trước khi mặt trời lặn hẳn. Đây là tượng trưng cho sự vật đều đã hoàn thành, tất cả đều đến tận cùng, mọi kết quả và thu hoạch bày ra, đồng thời bao hàm ý tàn giữ.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Tây Bắc vượng: mọi việc điều kiên trì tới cùng, có danh tiếng tốt và địa vị trong xã hội, biết sử dụng người tài, dễ thành công trong sự nghiệp kinh doanh, tư chất thông minh, hành vi chính trực nghiêm túc.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Tây Bắc suy: Dễ tin nhầm tà giáo mà tán tận gia sản, công việc thường gặp trở ngại, có khuynh hướng thô bạo, dễ gặp sự cố giao thông, có khuynh hướng tinh thần không bình thường.
Do ánh nắng buổi sáng chiếu từ hướng Đông Nam, tuy không mạnh bằng hướng chính Đông, nhưng vì mặt trời mọc lên, ngầm bao hàm ý nghĩa các sự vật đang từ từ phát triển, dần dần định hình, tràn đầy lòng hăng hái và sức sống, dễ được sự tin tưởng của người nên có rất nhiều cơ hội thành công.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Đông Nam vượng: Trạng thái tinh thần ổn định, sức khỏe tốt, thể lực dồi dào.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Đông Nam suy: Quan hệ với người xấu, đam mê rượu chè, cuộc sống phóng túng, vận may kém, dễ gặp tai nạn.
Tượng trưng cho sự giao thoa hoán đổi giữa ban đêm và ban ngày, giữa âm và dương. Bắt đầu cho những biến hóa mới, nó vừa có ý nghĩa gợi ý, tiến lên, đồng thời cũng biểu thị cho sự kết thúc và dừng lại.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Đông Bắc vượng: Cuộc sống gia đình hạnh phúc, được cha mẹ, anh em và họ hàng giúp đỡ, có lợi tức từ bất động sản, quan niệm tiền bạc đúng đắn, không lãng phí, khi gặp trở ngại đều có thể vượt qua thuận lợi, được hưởng thụ thành quả mỹ mãn.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Đông Bắc suy: Người nhà bất hòa, ít qua lại với họ hàng thân thuộc, gia vận ngày càng sa sút, tổn thất tiền của lớn một cách bất ngờ, làm ăn nhiều thất bại đến phá sản, bị người khác lừa gạt bất động sản.
Là hướng thời khắc buổi trưa, không những là thời điểm mà còn là lúc bắt đầu xuống dốc. Đây là tượng trưng vạn vật ở trạng thái chín mùi, đầy đủ, không ngừng cố gắng và bắt đầu phát huy công hiệu của chúng.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Tây Nam vượng: Khỏe mạnh, dồi dào tinh lực, đam mê công việc, thái độ khiêm tốn, gây được cảm tình nơi người khác, dễ được lợi từ bất động sản, có nhiều bạn bè.
* Các chỉ dấu hướng (phương vị) Tây Nam suy: khó làm chủ hay đứng đầu; dễ mắc bệnh đường ruột, tiêu hóa, nữ giới sức khỏe yếu, thường xuyên ốm đau, gia đình hay bị liên luỵ, gây phiền phức không ngừng, tổn thất từ bất động sản.
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.